Tên di sản : Đền Thiều (Đền thờ Lê Phúc Đồng)
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 573/QĐ-VHTT
Giới thiệu
Đền Thiều được nằm trên một khu đất rộng ở đỉnh đầu núi con Rùa (còn gọi là núi Thiều Xá). Toàn bộ công trình được cấu trúc gồm: cổng nghinh môn – sân – đền thờ, theo thứ tự từ ngoài vào.
Nghinh môn: Là một toà nhà một lớp 4 mái, tường bít đốc với diện tích (dài 6,6m x rộng 3,5m = 25,1m2). Bờ giải và bờ nóc đắp vỡ to mập có đường gờ nổi, tạo cho các bờ giải này mềm mại và đẹp mắt. Bộ mái được lợp ngói mũi thông thường. Có 3 cửa ra vào, cửa giữa lớn và hai cửa nhỏ hai bên được cấu tạo vòm cuốn. Khoảng cách giữa mái dưới và mái trên là những mảng tường ngăn cách, được trang trí hình các con giống như chim phượng, hổ phù. Trên đỉnh nóc được đắp hình hổ phù ở giữa còn hai bên đấu trụ tường vĩ là các con Kìm Chầu.
Nhìn chung, toàn bộ nghinh môn được xây dựng như một cái nhà, phía bên trong không có bố trí gì ngoài việc có tác dụng đi lại. Vật liệu xây dựng hoàn toàn bằng gạch vôi vữa, không có gỗ, lối kiến trúc công nghinh môn bằng chất liệu trên cùng với kiểu dáng cho biết niên đại loại này thường cuối thời Nguyễn.
Sân đền: có diện tích (rộng 12m x dài 14m = 26,8m2), được lát gạch, có tường rào bao bọc ở phía Đông. Trong sân được bố trí một số cây cảnh, hòn non bộ. Phía tây sát với nhà khách là một miếu nhỏ thờ thần thổ địa.
Đền thờ: Cấu trúc chính của đền thờ theo kiểu chữ Công (I) gồm: tiền đường, ống muống và hậu cung.
Phần ngoại thất của đền thờ còn khá nguyên vẹn, duy chỉ có mái sau của nhà Tiền đường được lợp lại ngói.
Kết cấu nhà tiền đường gồm: hiên và nhà chính với diện tích (rộng 6,1m x dài 14m = 85,4m2). Phần ngoại thất của tiền đường gồm 4 mái theo kiểu chồng diêm. Phía trước ở hai đầu sát tường vĩ là hai cột nanh được xây hình trụ vuông vức, chắc chắn. Phía trên đỉnh cột nanh đắp nổi hình bấu chầu. Ở phía mặt tiền, khoảng cách giữa mái trên và mái dưới là các ô trống được trang trí hình các con giống như chim phượng, nghê đắp nổi và cả hình cuốn thư…Trên đỉnh mái là hình lưỡng long chầu nguyệt.
Nhà tiền đường gồm có 4 cửa ra vào xây vòm cuốn. Hai cửa lớn ở giữa và hai cửa nhỏ hai bên được cấu tạo thành hai lớp: Cửa hiên và cửa chính. Hai lớp cửa này thì cửa hiên để trống, còn cửa chính được bố trí cánh cửa. Sự khác nhau ở chỗ là những cửa chính này lại được gia cố thêm phần trang trí ở trên đỉnh cửa gồm các bức chạm khắc bằng gỗ đưa từ bên ngoài kiến trúc vào. Vì vậy mà những cửa ra vào ở tiền đường lại hình chữ nhật. Cấu trúc ở phía trong tiền đường được chia thành 2 lớp hiên và nhà chính. Toàn bộ kết cấu bên trong được xây dựng vòm cuốn chắc chắn, không có gỗ. Để tạo nên sự phân cách giữa các gian trong đền thờ là được xây các trụ cột gạch sát vào tường. Trên các trụ cột này được trang trí câu đối, hoặc đắp nổi hình hoa lá, tạo nên sự mềm mại và vui mắt trong toàn bộ nội thất của ngôi nhà.
Nhìn chung, nhà Tiền đường với quy mô to lớn, bề thế lại được xây vòm cuốn, trên tường được bố trí hình hoa lá, kể cả các bức hoạ cuốn thư, cảnh sinh hoạt được dân gian có nhiều đường nét cầu kì lộng lẫy, tạo cho cảm giác linh thiêng.
Tiếp sát với nhà tiền đường là một toà nhà muống với diện tích (dài 5,5m x rộng 2,8m = 15,4m2), cũng được xây vòm cuốn. Trên vòm cuốn của khu kiến trúc ống muống này không có trang trí gì.
Cuối cùng trong hệ đền thờ là hậu cung với diện tích 48,6m2, đã được tu sửa lại ở phần trần nhà. Do lâu ngày, việc bảo quản không tốt nên ẩm thấp đã tạo nên sự sụt lở phần vôi vữa trên trần. Trang trí kiến trúc ở đây đơn giản, cũng chỉ sử dụng các đường giờ chỉ và các cột để phân cách gian.
Hiện tại, đền Thiều còn lưu giữ được một số hiện vật của các thế kỉ trước, các hiện vật này được bố trí theo hệ thống thứ tự bao gồm: Cung đệ nhất (hậu cung), cung đệ nhị (ống muống), và cung đệ tam (tiền đường). Qua khảo sát thì thấy được nhân dân ở đây đã đưa vào đền Thiều cả Đức Thánh Mẫu gồm: Cung đệ nhất là bà chúa Thiên Cung (là Liễu Hạnh), đệ nhị Thánh Mẫu (ở bàn thờ thứ hai, đệ tam Thánh Mẫu (bàn thờ thứ ba), đệ tứ Thánh Mẫu (bàn thờ thứ tư). Ngoài cùng là ngai thờ của Đức Thánh Lê Phúc Đồng. Hai bên tả (vị thần Nam Tào), bên hữu (Bắc Đẩu).
Điều đặc biệt trong hệ thống đền thờ này là các hiện vật thờ đều là loại cổ có giá trị nghệ thuật cao.
Nơi đặt bài vị bà chúa Thiên Cung là một khám thờ được làm theo kiểu kiệu Long đình. Các bức chạm khắc trên khám thờ này là đề tài chữ thọ, hồi văn, mây, hoa sen, hoa lá với lối chạm rất tỉ mỉ, chi tiết trong một cấu trúc hình mạch lạc, khúc chiết của đồ vật.
Tiếp đến cung đệ nhị, trên các bàn thờ là các ngai thờ có niên đại cuối thế kỉ XVIII, những ngai thờ này cũng được chạm khắc tỉ mỉ, được chia thành nhiều ô hộc lớn nhỏ khác nhau, dài ngắn khác nhau nhưng bố cục rất cân đối. Trên bề mặt đều được chạm hình rồng, các đao lửa, mây xoắn và nhiều hình kỉ hà khác. Nét chạm tỉ mỉ có sự phối hợp giữa chạm thủng và chạm nông để có được nhiều lớp tạo cho tác phẩm có chiều sâu của khối hình. Loại ngai thờ có bố cục là hình chạm khắc này ta thường thấy chúng có niên đại xếp vào thế kỉ XVIII – XIX.
Ngoài những ngai thờ được sơn son thếp vàng kể trên, trên bàn thờ còn được bố trí các đồ thờ cúng như đài nước, mâm bồng, đền thờ, bát nhang,…những hiện vật này cũng đều là những loại hiện vật cổ có giá trị.
Cung đệ tam là ngoài cùng ở khoảng giữa tiền đường và toà ống muống được đặt ngai thờ và bài vị Lê Phúc Đồng, ngoài một chút nữa là một bát hương thờ hội đồng các quan. Trên bàn thờ này có nhiều loại đồ thờ: Bát hương gốm, đền, chúc thư và một số đồ thờ bằng đồng khác.
Đặc biệt tại khu di tích: ở ngoài sân là miếu thờ nhỏ thờ thần thổ địa. Có một hương án bằng đá được chạm khắc tinh xảo. Trên hương án này là những đồ thờ, hiện vật cũng toàn bằng đá như mâm bồng, bát hương, đài nước…Những hiện vật này cùng với hàng chục viên đá tảng còn lưu giữ lại trên nền sân của di tích, chứng tỏ di tích đền Thiều của thế kỉ XVII, kiến trúc gỗ đá bị phá bỏ, còn kiến trúc chính hiện nay là kiến trúc Nguyễn cuối thế kỉ XIX.
Đền Thiều là nơi thờ nhân thần, người có công lớn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước dưới triều các vua Lê (Hậu Lê). Qua những di vật còn lại thì ít nhất đền cũng phải có từ thế kỉ XVII trở về trước. Nhưng thời gian, năm tháng và chiến tranh đã tàn phá đi nhiều. Nhân dân đã phải góp tiền của để tu sửa nhiều lần và đặc biệt cố gắng giữ gìn một số di vật có giá trị nghệ thuật đáng quý. Đó là việc làm đáng trân trọng vì chẳng những thờ cúng người có công với nước là nghĩa vụ truyền thống văn hoá của dân tộc ta mà việc giữ gìn bảo vệ các di tích nghệ thuật còn nói lên tấm lòng của nhân dân đối với nền văn hoá của ông cha để lại.
Tuy vậy, ở đây ta thấy sự hội tụ của nhiều thời kì của nền mĩ thuật Việt Nam từ các thế kỉ XVII – XIX. Trong đó phần kiến trúc chính là thời Nguyễn, còn một số hiện vật là từ thời gian trước đó (thời Lê).
Hiện tại, các hiện vật trong di tích còn có: 1 khám thờ (theo kiểu kiệu Long đình) trong khám có thánh vị, 6 ngai thờ, 9 bát hương, 1 kiếm thờ, 2 quân cờ, 1 đại tự, 4 câu đối gỗ, 1 cây đèn gỗ, 1 giá chiêng, 1 giá chuông, 3 mâm bồng gỗ, 1 khay mịch gỗ, 1 khay mịch bằng đá, 1 mâm bồng bằng đá, 1 án thư bằng đá, 2 đế đèn bằng đá, 2 đài nước bằng đá, 1 bia đá chưa viết chữ.